Tỷ số giới tính khi sinh của miền Bắc luôn ở mức cao nhất cả nước, ở mức 115,5 / 100 đối với trẻ em trai; các chuyên gia nhân khẩu học cho rằng điều này là do khu vực dân số vẫn chủ yếu là nam và nữ.
Xing’an, 40 tuổi, Thanh, sinh được 3 cô con gái, lo lắng sẽ giống mẹ và sinh con trai lần thứ bảy. Vợ chồng chị đi làm ruộng, chăn lợn, túng quẫn. Bố mẹ chồng luôn thúc giục tiếp tục có con cho đến khi chàng trai “mừng rỡ” xuất hiện. Thanh cho biết: “Gia đình ở quê nên việc sinh con trai nối dõi tông đường rất căng thẳng”.
Tuy nhiên, nhà rất nghèo, nếu sinh thêm con gái nữa thì vợ chồng bà cũng không nuôi nổi. Tôi mang thai lần thứ 4. Năm ngoái, biết đứa con trong bụng là con gái, cô ấy âm thầm sẩy thai và hy vọng lần sau sẽ sinh được một bé trai. “Nếu lần sau là con gái, có lẽ tôi sẽ không giữ được nữa”, cô nói.
Ngọc Linh, 27 tuổi, quê ở Shanluo, lấy chồng là cháu trai trong gia đình nên cô cũng mang nặng đẻ đau. Hai vợ chồng thuê nhà và đi làm thêm ở Hà Nội, thu nhập hàng tháng khoảng 15 triệu NDT nên gặp áp lực về tài chính.
Định nghĩa “phải có con trai”, nhưng tôi không muốn sinh con trai, con gái chứ chưa nói đến việc nuôi con đã đủ tốn kém. Ngoài những chi phí cơ bản như quần áo, bỉm, tã, sữa …, một gia đình khi sinh con phải nghỉ để chăm con, bên còn lại không gánh nổi gánh nặng tài chính. Khi con lớn lại phải đóng học phí, chơi game nên khi chuẩn bị mang thai con đầu lòng, vợ chồng chị Lin đã âm thầm tìm hiểu và sinh con trai bằng phương pháp lựa chọn giới tính trước sinh.
Theo bảng báo cáo Tổng quan về bình đẳng giới năm 2021 Theo số liệu công bố cuối tháng 10, tỷ số giới tính của dân số sinh ở Việt Nam năm 2019 vẫn ở mức cao, cứ 100 trẻ sơ sinh sống thì có khoảng 111,5 trẻ trai. Đồng thời, tỷ lệ bình thường là 104-106 trẻ trai trên 100 trẻ gái. Đồng bằng sông Hồng có mức chênh lệch lớn nhất, khoảng 115,5 / 100. Các tỉnh có tỷ số giới tính khi sinh cao nhất tập trung ở phía bắc, bao gồm Bắc Giang, Hưng An, Hải Dương, Bắc Ninh, Hà Nội và Shan La.
Ý kiến của Giáo sư Nguyễn Đình Cử, nguyên Viện trưởng Viện Dân số và Các vấn đề xã hội, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Ba yếu tố ảnh hưởng đến tỷ số giới tính của dân số sinh hiện nayTrong số đó, cái gốc nằm ở ảnh hưởng của Nho giáo, bất bình đẳng giới.
Nho giáo có quan điểm rất rõ ràng và cực đoan về việc “trọng nam khinh nữ”. Nho giáo đặt người phụ nữ vào vị thế thấp kém, “tề gia tại gia, gả chồng, phụ chồng”, thậm chí có câu “trai viết bạn, mười gái viết” (một người đàn ông tốt), mười cô gái được coi là. không là gì cả) … Một lực lượng vô hình nhưng bền bỉ của ý thức xã hội buộc nhiều người Việt Nam phải hướng tới con trai, điều này đã gây ra áp lực suốt đời không chỉ cho bản thân mà còn cho gia đình, họ hàng, cộng đồng và xã hội.
Thứ hai, trình độ phát triển kinh tế xã hội còn tương đối thấp. Trong sản xuất chung nông, ngư, lâm, nghiệp, lợi thế cơ nam trở thành lợi thế đất canh tác, chèo thuyền, phát rừng … Năng suất Ngành nông nghiệp có nguồn lao động thấp, cha mẹ thường không có tiền tiết kiệm. để tiết kiệm cho tuổi già và hầu hết mọi người không có lương hưu. Hệ thống an sinh xã hội chưa hoàn thiện. Vì vậy, khi thất nghiệp, cuộc sống của ông chủ yếu phụ thuộc vào con trai.
Thứ ba, nguyên nhân dẫn đến khoảng cách giới xuất phát từ việc lạm dụng các thành tựu khoa học và công nghệ. Ngày nay, việc chẩn đoán giới tính thai nhi sớm đã có thể thực hiện được, việc phá thai ngày càng trở nên thuận tiện và an toàn hơn. Do đó, nếu giới tính của đứa trẻ tương lai không đáp ứng được mong muốn của cha mẹ thì có thể tiến hành phá thai. Ngoài ra, với sự ra đời của công nghệ hiện đại, nhiều gia đình có thể lựa chọn giới tính cho con khi sinh. Một mặt, công nghệ mới hỗ trợ phát hiện và giảm thiểu các biến chứng khi mang thai và sinh nở. Mặt khác, nó còn giúp xác định giới tính của trẻ trước khi sinh và tạo điều kiện thuận lợi cho việc lựa chọn giới tính trước sinh.
Quá nhiều đàn ông dẫn đến những gì các nhà nhân khẩu học nói Áp lực hôn nhân, Điều đó có nghĩa là nam giới ngày càng khó khăn trong việc tìm kiếm bạn đời và kết hôn. Sự mất cân bằng về nhân khẩu học này đã dẫn đến nhiều hệ lụy như: tảo hôn, tảo hôn, buôn bán người, lao động tình dục, bạo lực giới trong gia đình …
Hiện nay, tỷ lệ sinh ở Việt Nam đang giảm tương đối nhanh và số con của một cặp vợ chồng đang giảm dần. Ku nói rằng việc hai vợ chồng sử dụng các phương pháp lựa chọn giới tính trước khi sinh để sinh con trai đã gây ra áp lực.
Theo nghiên cứu của Tổng cục Thống kê Việt Nam và Quỹ Dân số Liên hợp quốc, ước tính đến năm 2034, sẽ có hơn 1,5 triệu nam giới trong độ tuổi từ 15 đến 49 ở Việt Nam; đến năm 2059, sẽ có hơn hơn 2,5 triệu nam giới.
Trả lời phỏng vấn VnExpress Khởi đầu năm mới Về chênh lệch giới tính khi sinh và tình trạng dư thừa nam giới trong tương lai, bà Naomi Kitahara, đại diện Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại Việt Nam, nhấn mạnh một khía cạnh khác.Đó là Song song với tình trạng thừa nam là thiếu nữ.Một thế hệ. Theo ước tính, hàng năm ở Việt Nam thiếu 45.900 trẻ em gái, tức là 45.900 trẻ em gái không có cơ hội được sinh ra chỉ vì là trẻ em gái. Điều này cho thấy rõ thực trạng bất bình đẳng giới hiện nay.
Trên thế giới, có khoảng 10 quốc gia đang phải đối mặt với vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh. Ba quốc gia tiêu biểu là Hàn Quốc, Singapore và Tunisia đã đảo ngược thành công xu hướng này, đặc biệt là Hàn Quốc.
Việt Nam và Hàn Quốc đã ban hành chính sách cấm tiếp xúc giới tính thai nhi khi khám thai. Đặc biệt, Hàn Quốc đã áp dụng chính sách giáo dục tiến bộ về vai trò và giá trị của phụ nữ và trẻ em gái đối với phụ nữ, trẻ em gái và tất cả mọi người.
Bà Naomi Kitahara cho rằng điều quan trọng là phải có các biện pháp truyền thông để thay đổi xã hội và nhận thức của cộng đồng về vấn đề này. Đồng thời, khung pháp lý cần được hoàn thiện để đảm bảo phụ nữ được hưởng quyền bình đẳng với nam giới về quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế.
Đây cũng là giải pháp do Giáo sư Ku đề xuất. Theo ông, một việc nữa là cần nỗ lực xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật, các quy ước, hương ước, bao gồm việc cấm mọi hình thức lựa chọn giới tính thai nhi và tăng cường giám sát việc thực hiện. Luật pháp không tiết lộ giới tính thai nhi. Nhưng hiện nay, việc không công khai giới tính thai nhi vẫn chưa được thực hiện nghiêm túc.
Bên cạnh đó, nhà nước cũng cần hoàn thiện chính sách an sinh xã hội để người cao tuổi, nhất là những người cao tuổi có hai đứa con gái bình yên trong những năm tháng sau này như: chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người cao tuổi; hạ tuổi được hưởng. lương hưu, hiện trên 80 tuổi Người cao tuổi có thể giảm xuống 75 tuổi; hỗ trợ chăm sóc người cao tuổi tại cộng đồng; khuyến khích, hỗ trợ các trung tâm nuôi dưỡng người cao tuổi …
.