Kết nối với chúng tôi

Sức khỏe

Những điều bạn cần biết về tiêu chảy liên quan đến kháng sinh

Được phát hành

on

Tiêu chảy là một trong những tác dụng phụ thường gặp của thuốc kháng sinh, có thể dẫn đến các bệnh đường ruột.

Lạm dụng thuốc kháng sinh và hậu quả của nó

Việc sử dụng thuốc kháng sinh giống như một con dao hai lưỡi. Ngoài tác dụng điều trị và tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh, kháng sinh còn có thể gây ra nhiều tác dụng phụ, thường gặp nhất là rối loạn hệ vi khuẩn đường ruột, biểu hiện là đau bụng, buồn nôn, tiêu chảy và các rối loạn tiêu hóa khác … Trong đó, kháng sinh đồ tiêu chảy liên quan là một dạng cấp tính Tiêu chảy có thể xảy ra ở 5-30% bệnh nhân, và khi phổ kháng sinh ngày càng rộng, tỷ lệ mắc bệnh cũng ngày càng tăng.

Trẻ em dễ bị tiêu chảy khi dùng kháng sinh hơn người lớn do hệ tiêu hóa của trẻ chưa phát triển hoàn thiện. Theo thống kê, tại Việt Nam, cứ 5 trẻ dùng kháng sinh thì có một trẻ bị tiêu chảy (20%).

Advertisement

Có nhiều cơ chế gây tiêu chảy do kháng sinh. Một vài loại thuốc kháng sinh có thể làm tăng nhu động ruột, khiến dịch cơ thể và thức ăn chưa tiêu hóa nhanh chóng được đẩy từ ruột xuống hậu môn chứ không phải qua quá trình hấp thu vào cơ thể, gây tiêu chảy, biểu hiện thường nhẹ. Đồng thời, hầu hết các loại thuốc kháng sinh đều có thể ảnh hưởng đến vi khuẩn gây rối loạn hệ vi khuẩn đường ruột, dẫn đến tiêu chảy. Một số loại thuốc bao gồm hai cơ chế này, đặc biệt là nhóm amoxicilin kết hợp với acid clavulanic gây tiêu chảy nặng hơn các loại thuốc khác.

Hệ vi sinh vật đường ruột cũng liên quan mật thiết đến hệ thống miễn dịch của cơ thể, giúp duy trì hàng rào chống lại các nguy cơ bệnh tật. Vì vậy, khi hệ vi khuẩn đường ruột bị rối loạn do sử dụng kháng sinh, sức đề kháng của cơ thể cũng sẽ giảm sút. Đây là lý do tại sao khi sử dụng quá nhiều thuốc kháng sinh, cơ thể dễ bị nhiễm trùng.

Việc sử dụng thuốc kháng sinh một cách ngẫu nhiên cũng có thể gây ra nhiều tác dụng phụ khác cho cơ thể như dị ứng, nhiễm độc gan thận và có thể nguy hiểm đến tính mạng. Về lâu dài, lạm dụng có thể dẫn đến tình trạng kháng thuốc kháng sinh, từ đó hạn chế tác dụng điều trị, giảm hiệu quả diệt khuẩn của thuốc, làm bệnh nặng hơn, có thể dẫn đến tử vong.

Hầu hết các loại thuốc kháng sinh đều có thể gây tiêu chảy, nhưng một số loại thuốc kháng sinh có khả năng gây tiêu chảy hơn những loại khác, chẳng hạn như cephalosporin, clindamycin và penicillin.

Thuốc kháng sinh ảnh hưởng đến hệ vi sinh vật đường ruột như thế nào?

Advertisement

Ngoài vi khuẩn có lợi và có hại, hệ vi sinh vật đường ruột của con người còn chứa vi rút, nấm và ký sinh trùng tồn tại tự nhiên trong cơ thể.

Trong trường hợp bình thường, các vi sinh vật trong ruột sẽ tồn tại theo một tỷ lệ cân bằng nhất định. Khi bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như sử dụng kháng sinh, thay đổi chế độ ăn uống, hoặc bệnh tật, sự cân bằng hiện có sẽ thay đổi về số lượng, làm giảm sự đa dạng của các loài vi khuẩn, dẫn đến rối loạn hệ vi khuẩn đường ruột (hay còn gọi là bệnh rối loạn sinh học trong tiếng Anh). Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự xáo trộn của hệ vi sinh vật đường ruột do dùng kháng sinh có thể kéo dài và vẫn có thể được phát hiện đến 6 tháng sau khi ngừng sử dụng kháng sinh.

Việc lạm dụng kháng sinh trong thời gian dài sẽ khiến hệ vi khuẩn đường ruột không thể phục hồi kịp thời dẫn đến các bệnh mãn tính khó hồi phục. Điều này có thể dẫn đến các bệnh đường ruột như hội chứng ruột kích thích (IBS) hoặc bệnh viêm ruột (IBD), hoặc các bệnh toàn thân như bệnh béo phì, bệnh tiểu đường loại 2, bệnh chuyển hóa và bệnh thoái hóa thần kinh bệnh Alzheimer. Trẻ có thể bị hen suyễn, dị ứng, các bệnh miễn dịch… Những bệnh này thường đi kèm suốt đời, chi phí điều trị cao ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh.

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) liệt Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ kháng kháng sinh cao nhất thế giới.bản đồ Sử dụng kháng sinh năm 2015 Báo cáo của IMS Health cũng cho thấy Việt Nam thuộc nhóm nước sử dụng nhiều kháng sinh.

Trong khi nhiều nước phát triển vẫn đang sử dụng hiệu quả kháng sinh thế hệ 1 thì Việt Nam lại phải sử dụng kháng sinh thế hệ 3, 4. Điều đáng lo ngại hơn là ở Trung Quốc đã xuất hiện một số siêu vi khuẩn kháng tất cả các loại kháng sinh. Hệ vi khuẩn gram âm đường ruột phổ biến nhất.

Advertisement

Giải pháp này giúp ngăn ngừa tiêu chảy liên quan đến kháng sinh và phục hồi các rối loạn hệ vi khuẩn đường ruột

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), men vi sinh (thường được gọi là men vi sinh) là những vi sinh vật sống, khi được bổ sung đủ lượng sẽ mang lại lợi ích sức khỏe cho người sử dụng. Probiotics được tìm thấy trong nhiều loại thực phẩm, chất bổ sung, hoặc như một phương pháp phòng ngừa hoặc điều trị một số bệnh liên quan đến rối loạn hệ vi sinh vật đường ruột.

Mặc dù men vi sinh được coi là giải pháp hữu hiệu để ngăn ngừa tiêu chảy do dùng kháng sinh nhưng không phải loại men vi sinh nào cũng có thể phát huy tối đa tác dụng này. Cụ thể, theo nghiên cứu “Độ nhạy với kháng sinh của các chủng lợi khuẩn (Neut C, et al., 2017), hầu hết các bào tử như Bacillus clausii, hoặc các chủng vi khuẩn sống như Lactobacillus acidophilus, Fidobacteria kép đều bị tiêu diệt bởi thuốc kháng sinh kê đơn nên nên được thực hiện một lần sau khi kháng sinh.

Hiện nay, trên thị trường có một loại nấm có thể dùng làm men vi sinh giúp ngăn ngừa tiêu chảy do dùng kháng sinh, đó là nấm men Saccharomyces boulardii CNCM I-745 do Biocodex tại Pháp sản xuất. Đây là một loại lợi khuẩn có thể được sử dụng cùng với các loại kháng sinh khác mà không cần sử dụng riêng biệt. Nó giúp điều trị, kháng sinh và ngăn ngừa tiêu chảy do dùng kháng sinh.

Li Nguyen

Advertisement
Những điều bạn cần biết về tiêu chảy liên quan đến kháng sinh-4

Bioflora 100 mg, số đăng ký lưu hành VN-16392-13. Bioflora 200 mg số đăng ký lưu hành VN-16393-13.

.

Tiếp tục đọc
Bấm để bình luận

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sức khỏe

Các quốc gia tiêm vắc xin phòng bệnh cho trẻ trên 3 tuổi Covid-19-VnExpress

Được phát hành

on

Qua

Trong bối cảnh sự lây lan rộng rãi của các biến thể Delta, Trung Quốc, Cuba và UAE đã cung cấp vắc xin Covid-19 cho trẻ em từ 3 tuổi trở lên.

Với việc các lớp học được mở lại và các hạn chế được nới lỏng, nhiều bậc cha mẹ lo lắng về việc cho con mình đi học trong biến thể Delta đang lan rộng nhanh chóng. Các chuyên gia cho rằng khi đại dịch bắt đầu, trẻ em ít bị ảnh hưởng bởi virus và hiếm khi trở nặng hoặc tử vong sau khi mắc bệnh. Nhưng đến nay, số ca nhiễm ở lứa tuổi dưới 18 ngày càng gia tăng.

Ví dụ, ở Israel, sau khi trường học mở cửa vào ngày 1 tháng 9, số trẻ em có kết quả xét nghiệm dương tính với Covid-19 bắt đầu tăng lên đáng kể. Theo số liệu của Bộ Y tế Israel, vào tháng 9, hơn 54% kết quả xét nghiệm dương tính của nước này là dành cho trẻ em trong độ tuổi từ 0 đến 19.

Theo số liệu của Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh (CDC), số trẻ em và thanh thiếu niên nhập viện tại Hoa Kỳ đã tăng gần gấp 5 lần từ cuối tháng 6 đến giữa tháng 8. Tính đến ngày 28/10, gần 6,4 triệu trẻ em Mỹ đã có kết quả xét nghiệm dương tính với nCoV, và 657 trẻ trong số đó đã tử vong. Trong tuần qua, Hoa Kỳ ghi nhận thêm 101.000 trẻ em bị nhiễm Covid-19.

Advertisement

Nhằm hạn chế sự bùng phát của trẻ nhỏ, nhiều quốc gia đã chấp thuận việc tiêm vắc xin Covid-19 cho người từ 3 tuổi trở lên.

Từ ngày 25/10, trẻ em trên 3 tuổi Trung Quốc Đã được tiêm vắc xin chống lại Covid-19. 76% dân số nước này được tiêm hai liều vắc-xin. Các nhà chức trách vẫn duy trì chiến lược “không khoan nhượng” đối với căn bệnh này (zero coronavirus).

Các nhà chức trách ở ít nhất 5 tỉnh ở Trung Quốc đã công bố kế hoạch tiêm chủng cho trẻ em trong độ tuổi từ 3 đến 11. Điều này đã xảy ra khi các vụ dịch quy mô nhỏ được ghi nhận ở nhiều nơi, và số ca nhiễm trùng còn tăng nhanh hơn.

Đáng kính trọng, các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất (Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất) Vắc xin Covid-19 của Sinopharm cũng đã được công bố, loại vắc xin này phù hợp cho người từ 3 đến 17 tuổi. Quyết định được đưa ra bởi Bộ Y tế nước này sau khi thử nghiệm lâm sàng và đánh giá rộng rãi. Cuộc thử nghiệm bắt đầu vào tháng 6 và có 900 trẻ em tham gia. Trước đó, UAE đã tiêm phòng cho trẻ từ 12 đến 15 tuổi bằng vắc xin Pfizer. Quốc gia này là một trong những cơ sở thử nghiệm vắc xin lớn nhất của Sinopharm.

Vào cuối năm ngoái, dữ liệu sơ bộ do Tập đoàn Sinopharm công bố cho thấy tỷ lệ hiệu quả chung của vắc xin là 79%. Một nghiên cứu được công bố trên tạp chí The Lancet vào tháng 9 của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Trung Quốc (CDC) cho thấy vắc-xin an toàn cho trẻ em từ 3 đến 17 tuổi.

Advertisement

Kexing cũng tuyên bố vào tháng 3 rằng vắc-xin này có thể tạo ra khả năng miễn dịch và sẽ không gây ra các phản ứng phụ nguy hiểm cho trẻ em từ 3-17 tuổi. Giám đốc y tế của Kexing Zeng Gang cho biết, các thử nghiệm lâm sàng ở giai đoạn 1 và giai đoạn 2 đã chỉ ra rằng vắc xin của Kexing có thể tạo ra phản ứng miễn dịch ở 550 tình nguyện viên từ 3-17 tuổi.

Cả vắc xin của Sinopharm và Kexing đều sử dụng vi rút bất hoạt, một công nghệ truyền thống được sử dụng để sản xuất vắc xin bại liệt. Các nhà khoa học nuôi cấy virus trong những môi trường cụ thể và sau đó sử dụng hóa chất để ức chế chúng nhằm ngăn chặn chúng sinh sôi trong cơ thể người. Vắc xin dễ vận chuyển ở dạng đông khô và có sẵn cho người dân ở các nước đang phát triển, nhưng nó kích thích phản ứng miễn dịch kém hơn so với vắc xin có chứa vi rút sống.

Đầu tháng 9, Sở Y tế TP. Cuba Chủng ngừa được chấp thuận cho trẻ em từ 2-11 tuổi. Trẻ em Cuba đã được tiêm hai loại vắc xin nội địa là Soberana 2 và Soberana Plus. Vắc xin được phát triển bằng công nghệ protein tái tổ hợp và có thể được bảo quản trong điều kiện bảo quản lạnh thông thường, không cần làm lạnh sâu như một số vắc xin mRNA khác. Các thử nghiệm lâm sàng ở người lớn và trẻ em đã cho thấy hiệu quả của cả hai loại vắc xin này đều vượt quá 90%. Tuy nhiên, những dữ liệu này đã không được công bố và bình duyệt trên các tạp chí được bình duyệt.

Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã phê duyệt vắc-xin Covid-19 của Pfizer vào ngày 29 tháng 10 để sử dụng cho trẻ em từ 5 đến 11 tuổi và khoảng 28 triệu trẻ em trên toàn quốc sẽ được tiêm. Quyết định được đưa ra sau khi ủy ban cố vấn của FDA xem xét dữ liệu lâm sàng của thử nghiệm và bỏ phiếu với sự nhất trí cao.

Trong trường hợp khả năng miễn dịch tự nhiên thấp hoặc sự xuất hiện của các biến thể mới, việc tiêm vắc xin Covid-19 cho trẻ được coi là đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn đại dịch.

Advertisement

Ví dụ, Úc có kế hoạch mở các chuyến bay quốc tế vào tháng 11, cho phép công dân và người nhập cư xuất nhập cảnh nếu 80% dân số được tiêm chủng. Emma McBryde, một nhà nghiên cứu bệnh truyền nhiễm tại Viện Y tế và Y tế Nhiệt đới Úc, cho biết động thái này là “để đưa virus vào đất nước”. Để đảm bảo an toàn, quốc gia này cần xây dựng một hàng rào miễn dịch cực kỳ vững chắc cho công dân của mình thông qua việc tiêm chủng cho người lớn và trẻ em. Cho đến nay, chính phủ Úc vẫn chưa xem xét phê duyệt một loại vắc xin cho người dưới 12 tuổi.

Hiện Việt Nam chỉ tiêm vắc xin Covid-19 cho trẻ từ 12 – 17. Lịch tiêm thay đổi từ lớn đến nhỏ, tùy thuộc vào nguồn cung vắc xin và tình hình dịch bệnh ở các vùng miền. Bộ Y tế đã phê duyệt hai loại vắc xin dành cho trẻ em là Pfizer và Moderna. Tuy nhiên, vắc xin của Moderna đang thiếu hụt nên trẻ được tiêm vắc xin của Pfizer. Ngày 2/11, TP.HCM đề xuất tiêm vắc xin cho trẻ 3-11 tuổi nhưng Bộ Y tế chưa có phản hồi.

Thục Linh (theo dõi Associated Press, South China Morning Post, CNN, Tin tức Châu Phi)

.

Advertisement
Tiếp tục đọc

Sức khỏe

“6 tháng sau khi tiêm liều thứ hai, hiệu quả của nó đối với Covid giảm dần” -VnExpress

Được phát hành

on

Qua

Sáu tháng sau khi tiêm hai mũi vắc xin Covid-19, hiệu quả bảo vệ vẫn là 70% (giả sử hiệu quả ban đầu là 90%, tùy loại vắc xin) Các chuyên gia cho rằng việc tiêm nhắc lại này sẽ giúp hạn chế sự lây lan của vi rút. .

Đáp lại VnExpress Ngày 2/11, Phó Giáo sư Đỗ Văn Dũng, Trưởng khoa Y tế Công cộng, Đại học Y dược TP.HCM, đã hỗ trợ tiêm ba liều vắc xin Covid-19, đặc biệt cho những nhân viên y tế có nguy cơ cao do vi rút. . Thường xuyên tiếp xúc với bệnh nhân mắc bệnh.

Ông Dũng giải thích, các kháng thể, tế bào T và B có trí nhớ miễn dịch tạo thành “hàng rào” chống lại Covid-19. Đặc biệt, các kháng thể đóng một vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa triệu chứng Covid-19. Tế bào T và B có trí nhớ miễn dịch bảo vệ có thể ngăn ngừa bệnh trở nên trầm trọng hơn hoặc dẫn đến tử vong.

Dựa trên dữ liệu về kháng thể của những người được tiêm chủng, một nghiên cứu của Úc ước tính rằng lượng kháng thể kháng Covid-19 sẽ giảm một nửa sau 108 ngày (khoảng 15 tuần). Tuy nhiên, các tế bào miễn dịch khác không giảm, thậm chí tế bào B có trí nhớ tăng nhẹ theo thời gian trong 6 tháng đầu. Do đó, giả sử rằng vắc-xin có hiệu quả 90% đối với Covid-19 có triệu chứng lúc ban đầu, thì 6 tháng sau khi tiêm vắc-xin có hiệu quả 70%. Tức là, hiệu quả bảo vệ tổng thể bị giảm đi 20%, và mức độ kháng thể do vắc-xin tạo ra có thể giảm nhiều hơn nữa.

Advertisement

Dữ liệu mới nhất của Pfizer (tháng 7 năm 2021) dựa trên đánh giá hiệu quả vắc xin của 44.000 người ở Hoa Kỳ và các quốc gia / khu vực khác, cho thấy hiệu quả tổng thể của vắc xin sau hai lần tiêm giảm từ 91% xuống 84% sau 6 tháng. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng vắc-xin Pfizer có hiệu quả cao nhất trong khoảng thời gian từ một tuần đến hai tháng sau lần tiêm chủng thứ hai, ở mức 96,2%, với mức giảm trung bình 6% sau mỗi hai tháng. Hiệu quả của vắc-xin phòng ngừa bệnh Covid-19 nghiêm trọng đã ổn định ở mức 97%.

Theo thông báo của Moderna vào tháng 8 năm 2021, sau khi nhận đủ hai liều vắc xin Moderna, tỷ lệ hiệu quả tổng thể trong vòng 6 tháng là 93% và tỷ lệ hiệu quả tổng thể chống lại bệnh Covid-19 nghiêm trọng là 98%. Tuy nhiên, những dữ liệu mới nhất này không đánh giá hiệu quả của chủng Delta.

Hiện tại, chưa có nghiên cứu nào được công bố về hiệu quả lâu dài của vắc xin trong thế giới thực của AstraZeneca và vắc xin Covid-19 của Sinopharm.

Do đó, khoảng 4-6 tháng sau khi tiêm chủng, các kháng thể sẽ giảm xuống, và mọi người có thể bị bệnh nếu tiếp xúc với nCoV. Tuy bệnh không nghiêm trọng nhưng virus vẫn sinh sôi trong cơ thể nên có thể lây lan sang người khác, tạo “cơ hội” cho bệnh bùng phát. Vì vậy, theo PGS Dũng, việc tiêm tăng cường là rất quan trọng để đảm bảo không bị nhiễm trùng.

Calvin Q Trinh, thạc sĩ, bác sĩ Bệnh viện 1A TP.HCM, cũng ủng hộ việc tiêm ba mũi vắc xin Covid-19, vì lượng kháng thể chắc chắn sẽ suy giảm theo thời gian. Ví dụ, ở Mỹ, thời gian tiêm nhắc lại là 6 tháng sau khi tiêm xong mũi thứ hai của Pfizer-BioNTech hoặc Moderna.

Advertisement

“Việt Nam đang tiêm rất nhiều loại vắc xin, trong đó có một số loại vắc xin chưa được bảo vệ cao (50-60% theo các nghiên cứu đã công bố) nên tùy tình hình thực tế có thể tiêm sớm hơn, 4-5 tháng sau mũi thứ hai. liều lượng ”, bác sĩ nói.

Bác sĩ cho rằng không chỉ ưu tiên cho tuyến đầu tiêm vắc xin chống dịch mà cần mở rộng cho bệnh nhân ung thư, bệnh nhân nhiễm HIV, bệnh nhân mắc các bệnh tiềm ẩn, người hành nghề du lịch và những người bị suy giảm hệ miễn dịch … và sau đó triển khai các mũi tiêm cho toàn dân. Các cơ quan quản lý cần tính toán lượng vắc xin nhập khẩu phù hợp để đáp ứng nhu cầu đối với liều thứ ba và một trong hai nhóm đối tượng đã được tiêm. Tránh tình trạng ba mũi tiêm hoàn toàn khác nhau, vì tình trạng này chưa được nghiên cứu.

Ngoài ra, PGS Dong cũng cho rằng, trước khi tiêm chủng đại trà, cần nghiên cứu đánh giá kỹ lưỡng như vắc xin nào, người dân cần tiêm mũi thứ 3, khi nào. Các chuyên gia dự đoán rằng không cần tiêm nhắc lại vắc-xin Covid-19 hàng năm và tần suất có thể tương tự như đối với vắc-xin bạch hầu, mất 3-5 năm, vì hầu hết các đột biến nCoV khó có thể thoát khỏi khả năng miễn dịch của cơ thể. .

Ngày 30/10, Bộ Y tế Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị PV Dân trí và Bộ Y tế cho phép tiêm 3 mũi vắc xin Covid-19 cho nhóm nguy cơ cao và bộ đội tuyến đầu trong hai tháng cuối năm. năm. Đây là mũi tiêm nhắc lại cho người đã tiêm đủ hai loại vắc xin sau đó từ 6 tháng đến một năm tùy loại vắc xin, không phải tiêm nhắc lại. Pháp, Đức, Anh, Mỹ, Singapore … đã tiêm đủ 3 mũi vắc xin Covid-19.

Đến nay, tại TP.HCM đã có hơn 7,6 triệu người được tiêm vắc xin Covid-19 liều đầu tiên và hơn 5,7 triệu người được tiêm liều thứ hai.

Advertisement

Cẩm Lệ-Chile

.

Tiếp tục đọc

Sức khỏe

15% bệnh nhân mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính tử vong do nhiễm nCoV

Được phát hành

on

Qua

Một nghiên cứu ở Hoa Kỳ cho thấy 62% bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD) nhập viện do Covid-19, so với 28% ở nhóm không COPD, một tỷ lệ tử vong đáng báo động.

Nghiên cứu được thực hiện trên 387.000 bệnh nhân Covid-19, trong đó hơn 7.500 người mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD), chiếm 2,07%. Tỷ lệ tử vong của bệnh nhân COPD với bệnh viêm phổi vành mới là 15% (ở nhóm không COPD là 4%), điều này thật gây sốc. Phó Giáo sư Phan Thu Phương, Giám đốc Trung tâm Hô hấp Bệnh viện Baimai, cung cấp thông tin tại hội thảo. Để kỷ niệm Ngày bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính toàn cầu, Ngày 2 tháng 11.

Bác sĩ Hương cho biết: “COPD đã dẫn đến tỷ lệ nhập viện cao, bệnh nặng và tỷ lệ tử vong cao cho bệnh nhân Covid.

PGS.TS Cao Daoxuan, Phó Giám đốc phụ trách quản lý điều hành bệnh viện cho biết, trên thế giới hiện có khoảng 384 triệu người mắc COPD, trong đó 3 triệu người tử vong mỗi năm, là nguyên nhân chính gây tử vong, đứng thứ ba. trên thế giới. Con số này nhiều hơn số người chết vì tai nạn giao thông và vẫn đang tiếp tục tăng.

Advertisement

Theo số liệu điều tra quốc gia về tỷ lệ mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính ở Việt Nam, có 4,2% dân số mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính. Do nhiều yếu tố nguy cơ, như tiếp xúc với các yếu tố độc hại, đầu tiên là hút thuốc lá, sau đó là ô nhiễm môi trường, nhiên liệu sinh khối (đốt than, củi …), tiếp xúc nghề nghiệp (chế biến gỗ, sơn, dệt, xây dựng …), điều này tỷ lệ ngày càng tăng. .), và sự già đi của dân số.

Bác sĩ nhấn mạnh: “Tỷ lệ mắc và tử vong do COPD cao nhưng có thể phòng ngừa và điều trị được”.

Các dấu hiệu của COPD là các triệu chứng hô hấp và tắc nghẽn đường thở. Bệnh này thường tiến triển nặng và liên quan đến phản ứng viêm bất thường của phổi đối với các hạt và khí độc hại. Các đợt cấp và bệnh đi kèm của COPD ảnh hưởng đến mức độ nghiêm trọng của từng bệnh nhân.

Hầu hết các trường hợp tử vong do COPD xảy ra trong quá trình tiến triển của bệnh. Suy thoái COPD là một tình trạng cấp tính được đặc trưng bởi các triệu chứng hô hấp trở nên tồi tệ hơn, cần thay đổi phương pháp điều trị. Tần suất trung bình khoảng 2,5-3 đợt mỗi năm. Tình trạng bệnh nặng hơn khiến người bệnh phải nhập viện, đẩy nhanh quá trình suy giảm chức năng phổi, tăng tỷ lệ tử vong, tăng chi phí điều trị.

Chủ đề cho năm 2021 là Ngày bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính toàn cầu Đúng: “Không có gì quan trọng hơn lá phổi khỏe mạnh”, nhấn mạnh tầm quan trọng của phổi, đặc biệt là trong thời kỳ đại dịch.Tư vấn cho bệnh nhân COPD Tiêm vắc-xin cúm để ngăn ngừa Covid-19 và ngăn ngừa bệnh phế cầu khuẩn.

Advertisement

Người bệnh cần bỏ thuốc lá, thuốc lào; cải thiện môi trường sống tránh tiếp xúc với khói bụi, tập các bài tập phục hồi chức năng hô hấp … Người bệnh cần tuân thủ các liệu trình điều trị thông thường để giúp kiểm soát bệnh, tránh tình trạng bệnh nặng thêm.

Thực hiện nghiêm túc các biện pháp phòng chống dịch sau đây: Tránh sờ tay lên mặt, mắt, mũi, miệng; Tích trữ nhiều thực phẩm, hạn chế đi chợ; Cố gắng ở nhà, tránh đông người, hạn chế đi lại; phải chăm sóc người bệnh; Nhờ người khác giúp đỡ. Làm việc nhà hàng ngày để tránh căng thẳng; Trò chuyện trực tuyến với người thân, bạn bè để duy trì sức khỏe tinh thần và tình cảm; Tập thở, tập thể dục …

.

Advertisement
Tiếp tục đọc

Xu hướng