Hoa Kỳ đã cấm sản xuất, mua bán và vận chuyển đồ uống có cồn từ năm 1919 đến năm 1933, dẫn đến việc đóng cửa các nhà máy bia, nhưng lại làm gia tăng việc buôn bán rượu lậu. Nhưng cũng từ đây, St. Paul, Minnesota trở thành một trong những nơi dễ tìm thấy rượu lậu nhất cả nước.
Với sự giúp đỡ của các chính trị gia tham nhũng và cảnh sát trưởng, địa điểm này còn được gọi là “thánh địa tội phạm” ở miền Trung Tây, những người đã đồng ý làm ngơ trước các hoạt động ngầm của các băng nhóm (bao gồm buôn lậu, lừa đảo và cờ bạc).
Sự hợp tác này bắt đầu vào năm 1900 Giữ thỏa thuận, Một hợp đồng không chính thức giữa cộng đồng tội phạm và Cảnh sát trưởng Thành phố New York John O’Connor (John O’Connor).
Để đổi lấy những “dấu hiệu” về sự truy quét của cảnh sát và sự bảo vệ của chính phủ trong thời gian ở lại thành phố, nhóm côn đồ đầu tiên đồng ý nộp một phần lợi nhuận cho đồn cảnh sát.
Loại hình tạm trú sắp xếp rất đơn giản. Nếu bọn tội phạm tuân theo ba quy tắc đơn giản, chúng có thể ẩn náu ở Sao Paulo: liên hệ với đại diện của Cảnh sát trưởng O’Connor khi chúng đến thành phố; trả một khoản hối lộ nhỏ; và bạn không được phạm tội nghiêm trọng trong thời gian lưu trú.
Hậu duệ đầu tiên của O’Connor để đối phó với tội phạm là William Griffin. Khi bọn tội phạm đến thị trấn, chúng sẽ “đăng ký” với Griffin tại khách sạn Savoy và trả các khoản hối lộ cần thiết. Griffin vẫn là “người đại diện” của O’Connor cho đến khi ông đột ngột qua đời vì đột quỵ vào năm 1913 ở tuổi 65.
O’Connor ngay lập tức giành được một người theo dõi mới: “Dapper Dan” Hogan, được biết đến nhiều hơn với biệt danh “Bố già của Ireland.” Hogan được Bộ Tư pháp Hoa Kỳ mô tả là “một trong những tên tội phạm tháo vát và khôn ngoan nhất ở Hoa Kỳ.” Trong những năm 1920 và 1930, ông là nhân vật chính của thế giới ngầm của thành phố.
Hogan điều hành Green Lantern Bar trên phố Wabasha ở trung tâm thành phố São Paulo, một địa điểm phục vụ cho những kẻ lừa đảo, buôn lậu và những cá nhân đáng ngờ liên quan đến tội phạm có tổ chức. Green Lantern hoạt động như thuốc lắc và sòng bạc bất hợp pháp và là tuyến đầu của hoạt động rửa tiền.
Dưới sự ủy thác của cảnh sát trưởng, Hogan điều hành “Hệ thống O’Connor” để thu lợi từ các hoạt động bất hợp pháp của các băng đảng xã hội đen. Thỏa thuận này khiến São Paulo trở thành một trong những nơi có tỷ lệ tội phạm thấp nhất ở Hoa Kỳ và là nơi trú ẩn an toàn cho một số tội phạm khét tiếng nhất trong nửa đầu thế kỷ 20, chẳng hạn như John Dillinger, Mabuck và John Dillinger Alcapone.
Trong thời kỳ này, Minnesota trở thành tâm điểm của các hoạt động phi pháp, với những tội ác lớn, nhưng hầu như không có tội nghiêm trọng nào ở St. Đồng thời, khi các băng nhóm mở rộng hoạt động, các thị trấn và thành phố xung quanh rơi vào cảnh điên loạn.
“Cái bắt tay” giữa cảnh sát trưởng O’Connor đã mang lại cho cả hai bên những lợi ích tài chính. Chừng nào bọn tội phạm vẫn còn ở trong thành phố, Sao Paulo sẽ yên nghỉ, và tiền hối lộ vẫn sẽ rơi vào túi của O’Connor và các quan chức tham nhũng.
Kể từ sáng ngày 4 tháng 12 năm 1928, mọi thứ đã thay đổiHôm đó, sau khi ăn tối, Hogan chuẩn bị đi đến trung tâm thành phố, nhưng ngay khi khởi động chiếc xe coupe Page thì đó là lúc cho nổ quả bom nitroglycerin dưới sàn xe.
Vụ nổ khiến chiếc ô tô lao ra khỏi gara và đi vào con hẻm sau nhà. Hogan ngất xỉu ở ghế trước, chân phải gần như gãy. Sau khi hôn mê vào cuối ngày hôm đó, Hogan đã chết vào ban đêm.
Vài giờ trước khi hôn mê, Hogan nói: “Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra và tại sao nó lại xảy ra. Tôi không biết ai sẽ là kẻ tình nghi. Tôi nghĩ mình không có kẻ thù trên thế giới này”.
Những suy đoán của giới truyền thông những ngày sau đó chỉ ra rằng có lẽ các băng đảng ở New York đã được thuê để gây tội ác. Cái chết của Hogan đặc biệt đáng chú ý vì đây là cái chết do bom xe đầu tiên của đất nước.
Mặc dù về mặt kỹ thuật vụ giết người vẫn chưa được giải quyết, các hồ sơ FBI giải mật cho thấy người có nhiều khả năng chịu trách nhiệm cho vụ tấn công Hogan là trợ lý của anh ta tại Green Lantern Bar. Harry “Dutch” Sawyer.
Theo hồ sơ của FBI, Sawyer phát hiện ra rằng Hogan muốn anh ta rút khỏi hoạt động kinh doanh sòng bạc. Vài năm trước, Sawyer thả Hogan tại ngoại với số tiền lên tới 25.000 USD, nhưng không trả lại.
Trước khi vụ nổ xảy ra, Hogan nói với vợ rằng có 50.000 USD trong két sắt. Anh ta hướng dẫn lấy lại tiền phòng khi chết, nhưng sau khi làm đám tang, vợ anh ta phát hiện ra đó là một chiếc hộp rỗng. Người thứ hai biết chìa khóa két sắt là Harry Sawyer.
Cái chết của Hogan đánh dấu sự kết thúc của Thỏa thuận tạm trú của O’ConnorTỷ lệ tội phạm ở São Paulo cuối cùng đã tăng lên. Thành phố này, từng được biết đến với sự an toàn trong những năm 1920, đã trở thành một “điểm nóng về tội phạm”.
Sau khi Cấm kết thúc vào năm 1933, bọn tội phạm đã chiếm đóng thành phố. Không còn khả năng kiếm tiền từ việc bán rượu lậu, họ quay sang bắt cóc và tống tiền các ông chủ công ty lớn. Vụ việc ngày càng nghiêm trọng, và chính phủ liên bang phải can thiệp.
Năm 1934, chính phủ liên bang thông qua một loạt luật hình sự, tăng thẩm quyền của FBI. Điều này cho phép FBI chống lại các mối đe dọa băng đảng trên toàn quốc. Các đặc vụ liên bang đổ xô đến Sao Paulo, khiến các quan chức địa phương lo lắng rằng họ sẽ bị trừng phạt vì tội nhận hối lộ.
Cùng năm đó, các thám tử tư được thuê để nghe trộm đồn cảnh sát São Paulo trong hơn một năm. Những vụ nghe lén này đã phơi bày một loạt các hoạt động tội phạm và nổi tiếng là các quan chức và cảnh sát địa phương bị truy tố để bảo vệ tội phạm có tổ chức.
Năm 1935, cảnh sát thành phố phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng lực lượng chưa từng có. Một nửa trong số họ đã bị cách chức và buộc phải từ chức, chấm dứt “kỷ nguyên tham nhũng” của São Paulo trong gần 20 năm.
Haiqiu (theo dõi Mnopedia, Gangsterismout, tạp chí tội phạm)
.